Search this blog

Loading

11/30/2007 12:31:00 PM

(0) Comments

Văn kinh doanh... sáo rỗng

Nguyễn Vạn Phú

Tờ Economist vừa có một bài bàn về chuyện từ ngữ “đặc trưng” của giới quản trị kinh doanh, mở đầu bằng từ “offshoring”: The term “offshoring”, for instance, gained ground at the start of the decade to describe the process of sending business processes overseas. Offshoring trong ngữ cảnh này chính là từ outsourcing mà chúng ta thường dùng. Thật ra outsourcing là một quy trình được nhiều doanh nghiệp và tổ chức áp dụng từ lâu. Một công ty sản xuất nhỏ không thể nào bảo nhân viên mình tự thiết kế, in ấn bao bì, bèn thuê một công ty dịch vụ bên ngoài làm thay - cái đó chính là outsourcing. Trong mấy năm qua, outsourcing được dùng theo nghĩa chuyển một số công đoạn sản xuất hay dịch vụ ra nước ngoài, thuê công ty khác thực hiện - vì vậy từ offshoring nói ở trên là chính xác hơn.

Tờ báo nhận xét: “Offshoring, an ugly parent, fathered even uglier children”. Đấy là vì người ta đẻ ra những từ kỳ dị hơn như “farshoring” (chuyển sang địa bàn xa), “nearshoring” (chuyển đến những nơi gần), “onshoring” (làm ngược lại, tức là chuyển về chính quốc thực hiện). Thậm chí, có thêm từ “rightshoring” (cơ cấu lại lực lượng lao động để quyết định tỷ lệ “chuyển đi” và “giữ lại” sao cho hợp lý nhất).

Đây là một trong những bài mà tờ Economist thực hiện vào dịp tổng kết năm 2007 và dự báo năm 2008. Cho nên sau đó bài báo đưa ra một số dự báo về từ ngữ của giới quản trị kinh doanh cho những năm tới, theo kiểu nửa đùa nửa thật.

Ví dụ, từ thời thượng trong mấy năm qua là “globalization” (toàn cầu hóa); rồi người ta thấy cần phải thích nghi với từng địa bàn, từng thị trường (localization) và xu hướng là kết hợp cả hai (glocalization), kiểu như câu “thiệu” HSBC thường dùng - the world’s local bank. Vì thế bài báo mới phân tích: “Some of these ideas have geometric echoes: inspired by Thomas Friedman’s bestseller, executives pontificate about whether the world is flat or spiky”. Cụm từ geometric echoes ở đây chỉ là cách chơi chữ - ý tưởng gắn với các hình kỷ hà học - phẳng, tròn hay mấp mô đầy gai nhọn theo cách diễn đạt của Thomas Friedman trong cuốn “Thế giới phẳng”. Thế giới năm 2008 sẽ như thế nào? Theo tờ báo này, “Business leaders of 2008 will think it insightful to say that the world is round”!

Một cụm từ viết tắt cũng được giới quản trị kinh doanh ưa dùng là BRIC. Đây là từ xuất hiện từ năm 2003 để chỉ bốn nền kinh tế (viết theo tiếng Anh) Brazil, Russia, India và China. Sau đó mới có các biến thể như BRICET (thêm châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ), BRICS (thêm Nam Phi). Năm rồi cũng có nhiều người áp dụng cách viết gọn này để đẻ ra từ Chindia (gộp hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ) vì thế bài báo mới “tiên đoán”: “Watch for more elision in 2008: with luck, growing links between Spain and Latin America will go Splat”. Ở đây chúng ta biết thêm từ “elision” thường dùng trong ngôn ngữ học để chỉ lối nuốt bớt âm trong từ hay cụm từ khi phát âm. Ví dụ từ laboratory hay temperature thường được đọc gọn lại.

Một từ khác được bàn tán khá nhiều trong năm rồi là “long tail”, được bài báo giải thích ngắn gọn: “A theory on how the web can make lots of niche products more important than a few blockbusters (the short head)”. Ý nói nhờ Internet, người ta có thể “cá nhân hóa” sản phẩm để đáp ứng nhu cầu riêng biệt của nhiều thị trường nhỏ và nhờ thế bán được nhiều sản phẩm hơn là dồn sức cho một loại sản phẩm đồng nhất dù bán chạy nhưng tính gộp chưa chắc đã bằng. Nhân đó, bài báo dự báo một từ “ăn khách” trong năm 2008: “References to black swans, code for something that is wholly unexpected, are to be wholly expected throughout 2008”. Chúng ta chờ xem, không biết cụm từ “black swan” với nghĩa một sự kiện hoàn toàn bất ngờ có phổ biến trong năm tới không.

Có lẽ trong năm rồi chúng ta đã bắt gặp từ Web 2.0 mà không hiểu nó là cái gì. Tờ Economist có thể định nghĩa chính xác nhất khi viết: “Web 2.0 is a dull piece of jargon to describe the internet becoming a platform for interaction and collaboration”. Internet một chiều, vào để xem là chính, là Web cổ điển. Web 2.0 là có sự tương tác như kiểu các blog, diễn đàn hay các mạng xã hội. Đây là một dạng jargon rất “tẻ”, rất “nhạt”, không biết sao lại lây lan sang nhiều lĩnh vực khác. Khi Internet và truyền hình hòa thành một, ta có Television 2.0; Với Lunch 2.0, các bạn có đoán nó là gì không? Đó là xu hướng cung cấp bữa ăn miễn phí tại nhiều công ty tin học như Google chẳng hạn. Dự báo của Economist? “People have been talking about Web 3.0 for a while now and the term will gather momentum in 2008”. Gather momentum là ngày càng được dùng nhiều.

Cuối cùng, lĩnh vực môi trường cũng sản sinh một từ mới. Chúng ta thường dùng từ “whitewash” để nói đến chuyện “thanh minh, biện minh để che giấu sai lầm”, nay có thêm từ “greenwash” - chỉ chuyện nói một đường, làm một nẻo trong bảo vệ môi trường. Ví dụ, một công ty, thay vì đầu tư vào dây chuyền công nghệ để bảo vệ môi trường, lại chỉ thay nhãn sản phẩm cho ra vẻ quan tâm đến môi trường.
Source: TBKTSG (49/2007)
0 Responses to "Văn kinh doanh... sáo rỗng"